Điểm chính
1. Hai Hệ Thống Điều Khiển Suy Nghĩ: Nhanh, Trực Giác vs. Chậm, Cân Nhắc
Hệ thống 1 hoạt động tự động và nhanh chóng, với rất ít hoặc không có nỗ lực và không cảm thấy có sự kiểm soát tự nguyện.
Hệ thống 1 và Hệ thống 2. Tâm trí của chúng ta hoạt động thông qua hai hệ thống khác nhau: Hệ thống 1, nhanh chóng, trực giác và tự động, và Hệ thống 2, chậm rãi, cân nhắc và phân tích. Hệ thống 1 chịu trách nhiệm cho những phán đoán và ấn tượng nhanh chóng, trong khi Hệ thống 2 xử lý các phép toán phức tạp và lý luận có ý thức. Mặc dù chúng ta thường xác định với Hệ thống 2, nhưng Hệ thống 1 lại là tác giả thầm lặng của nhiều lựa chọn của chúng ta.
Hành động tự động của Hệ thống 1. Các khả năng của Hệ thống 1 bao gồm những kỹ năng bẩm sinh như nhận diện đối tượng, định hướng theo âm thanh và hiểu các câu đơn giản. Nó cũng bao gồm các liên kết và kỹ năng đã học trở nên tự động qua thực hành, chẳng hạn như đọc hoặc lái xe trên một con đường vắng. Những hành động này yêu cầu rất ít hoặc không có nỗ lực và diễn ra mà không có sự kiểm soát có ý thức.
Hoạt động cần nỗ lực của Hệ thống 2. Hệ thống 2 được kích hoạt khi chúng ta thực hiện các nhiệm vụ phức tạp như tập trung chú ý, giải quyết vấn đề hoặc đưa ra lựa chọn có chủ ý. Những hoạt động này yêu cầu nỗ lực có ý thức và bị gián đoạn khi sự chú ý bị phân tán. Hệ thống 2 có khả năng hạn chế và dễ bị mệt mỏi, dẫn đến việc phụ thuộc vào Hệ thống 1 khi tài nguyên bị cạn kiệt.
2. Sự Chú Ý Là Một Tài Nguyên Hạn Chế: Các Nhiệm Vụ Cần Nỗ Lực Làm Giãn Đồng Tử
Câu nói thường dùng “chú ý” thật phù hợp: bạn có một ngân sách chú ý hạn chế mà bạn có thể phân bổ cho các hoạt động, và nếu bạn cố gắng vượt quá ngân sách của mình, bạn sẽ thất bại.
Đồng tử như một cửa sổ. Sự giãn nở của đồng tử là một chỉ số đáng tin cậy về nỗ lực tinh thần, phản ánh những yêu cầu thay đổi của một nhiệm vụ. Những nhiệm vụ đòi hỏi nhiều hơn sẽ gây ra sự giãn nở lớn hơn, trong khi những cuộc trò chuyện bình thường yêu cầu rất ít nỗ lực và dẫn đến sự thay đổi đồng tử tối thiểu. Phản ứng sinh lý này cung cấp một thước đo rõ ràng về mức tiêu thụ năng lượng của tâm trí.
Nỗ lực tinh thần và sự mù quáng. Tập trung mạnh mẽ vào một nhiệm vụ có thể khiến con người trở nên mù quáng trước những kích thích mà bình thường sẽ thu hút sự chú ý. Điều này được chứng minh qua các thí nghiệm, nơi những cá nhân tham gia vào các nhiệm vụ nhận thức đòi hỏi cao không nhận thấy những sự kiện rõ ràng, làm nổi bật khả năng hạn chế của sự chú ý và việc phân bổ tài nguyên có chọn lọc.
Luật của nỗ lực tối thiểu. Cả Hệ thống 2 và các mạch điện đều có khả năng hạn chế, nhưng chúng phản ứng khác nhau với sự quá tải bị đe dọa. Một cầu dao sẽ ngắt khi nhu cầu về dòng điện quá mức, trong khi phản ứng với quá tải tinh thần là có chọn lọc và chính xác. Hệ thần kinh tiêu thụ nhiều glucose hơn hầu hết các bộ phận khác của cơ thể, và hoạt động tinh thần cần nỗ lực dường như đặc biệt tốn kém về mặt glucose.
3. Hệ Thống 2 Lười Biếng: Sự Tự Tin Quá Mức và Sự Dễ Dàng Tư Duy Thống Trị
Những người nói 10 xu dường như là những người theo đuổi nhiệt tình luật của nỗ lực tối thiểu.
Chức năng chính của Hệ thống 2. Một trong những chức năng chính của Hệ thống 2 là giám sát và kiểm soát những suy nghĩ và hành động “được gợi ý” bởi Hệ thống 1, cho phép một số được thể hiện trực tiếp trong hành vi và ức chế hoặc điều chỉnh những cái khác. Tuy nhiên, Hệ thống 2 thường lười biếng và có xu hướng chấp nhận những câu trả lời trực giác mà không xem xét kỹ lưỡng.
Sự tự tin quá mức và sự dễ dàng tư duy. Nhiều người có sự tự tin quá mức và có xu hướng đặt quá nhiều niềm tin vào trực giác của họ. Họ dường như thấy nỗ lực tư duy ít nhất là khó chịu và tránh nó càng nhiều càng tốt. Điều này được minh họa qua bài toán gậy và bóng, nơi nhiều người đưa ra câu trả lời trực giác nhưng sai do không kiểm tra công việc của họ một cách chủ động.
Trí tuệ so với lý trí. Trí tuệ cao không nhất thiết khiến con người miễn dịch với những thiên lệch. Lý trí, hay khả năng tham gia vào tư duy phản biện và tự giám sát, là một khả năng riêng biệt mà khác nhau giữa các cá nhân. Những người lý trí hơn thường cảnh giác, hoạt động trí tuệ và hoài nghi về trực giác của họ.
4. Liên Kết Là Nền Tảng: Sự Gợi Ý Hình Thành Suy Nghĩ và Hành Động
Đặc điểm thiết yếu của tập hợp phức tạp các sự kiện tinh thần này là sự nhất quán của nó.
Kích hoạt liên kết. Những ý tưởng đã được gợi lên kích hoạt nhiều ý tưởng khác, trong một chuỗi hoạt động lan tỏa trong não của bạn. Quá trình này, được gọi là kích hoạt liên kết, diễn ra nhanh chóng, tự động và không tốn sức, liên kết ký ức, cảm xúc và phản ứng thể chất trong một mẫu nhất quán.
Ảnh hưởng của sự gợi ý. Việc tiếp xúc với một từ hoặc khái niệm có thể gây ra những thay đổi ngay lập tức và có thể đo lường trong sự dễ dàng mà các từ hoặc hành động liên quan có thể được gợi lên. Hiệu ứng gợi ý này có thể ảnh hưởng đến hành vi mà không có sự nhận thức, như được chứng minh qua các thí nghiệm nơi việc tiếp xúc với các từ liên quan đến người già khiến những người trẻ đi bộ chậm hơn.
Hiệu ứng ý tưởng vận động. Liên kết ý tưởng vận động cũng hoạt động theo chiều ngược lại. Một nghiên cứu được thực hiện tại một trường đại học ở Đức là hình ảnh phản chiếu của thí nghiệm sớm mà Bargh và các đồng nghiệp của ông đã thực hiện ở New York. Sinh viên được yêu cầu đi bộ quanh một phòng trong 5 phút với tốc độ 30 bước mỗi phút, khoảng một phần ba tốc độ bình thường của họ. Sau trải nghiệm ngắn này, những người tham gia nhanh chóng nhận ra các từ liên quan đến tuổi già, chẳng hạn như đãng trí, già và cô đơn.
5. Sự Dễ Dàng Tư Duy Ảnh Hưởng Đến Niềm Tin: Sự Quen Thuộc Vượt Qua Lý Trí
Bất cứ điều gì khiến cho máy móc liên kết hoạt động trơn tru hơn cũng sẽ thiên lệch niềm tin.
Sự dễ dàng và căng thẳng tư duy. Sự dễ dàng tư duy là dấu hiệu cho thấy mọi thứ đang diễn ra tốt đẹp, trong khi căng thẳng tư duy chỉ ra một vấn đề cần tăng cường huy động Hệ thống 2. Những trạng thái này bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như độ rõ ràng của phông chữ, sự lặp lại, tâm trạng và thậm chí cả biểu cảm khuôn mặt.
Ảo tưởng về sự quen thuộc và sự thật. Trải nghiệm về sự quen thuộc có một chất lượng đơn giản nhưng mạnh mẽ của ‘quá khứ’ dường như chỉ ra rằng nó là một phản ánh trực tiếp của trải nghiệm trước đó. Chất lượng của quá khứ này là một ảo tưởng. Sự thật là, như Jacoby và nhiều người theo ông đã chỉ ra, rằng cái tên David Stenbill sẽ trông quen thuộc khi bạn thấy nó vì bạn sẽ thấy nó rõ ràng hơn.
Thông điệp thuyết phục. Để viết một thông điệp thuyết phục, hãy tối đa hóa độ dễ đọc, sử dụng ngôn ngữ đơn giản và làm cho nó dễ nhớ. Sự lặp lại thường xuyên, vần điệu và các nguồn dễ phát âm có thể tăng cường tính đáng tin cậy, ngay cả khi thông điệp là sai.
6. Các Quy Tắc và Sự Ngạc Nhiên Định Nghĩa Thực Tại: Nguyên Nhân Được Tìm Kiếm Mọi Nơi
Khả năng ngạc nhiên là một khía cạnh thiết yếu của cuộc sống tinh thần của chúng ta, và chính sự ngạc nhiên là chỉ số nhạy cảm nhất về cách chúng ta hiểu thế giới của mình và những gì chúng ta mong đợi từ nó.
Đánh giá sự bình thường. Hệ thống 1 duy trì một mô hình về thế giới cá nhân, liên tục cập nhật những gì là bình thường. Sự ngạc nhiên là một chỉ số chính về mức độ chúng ta hiểu thế giới của mình và những gì chúng ta mong đợi từ nó. Những sự kiện vi phạm mô hình bình thường của chúng ta kích hoạt một cuộc tìm kiếm giải thích.
Nhìn thấy nguyên nhân và ý định. Tâm trí tự động tìm kiếm các kết nối nguyên nhân giữa các sự kiện, ngay cả khi chúng là giả tạo. Động lực này để đạt được sự nhất quán dẫn chúng ta đến việc xây dựng những câu chuyện liên kết các mảnh kiến thức, thỏa mãn nhu cầu giải thích của chúng ta.
Ảo tưởng Moses. Ảo tưởng Moses có thể được giải thích dễ dàng qua lý thuyết quy tắc. Ý tưởng về các loài động vật vào trong chiếc thuyền đã thiết lập một bối cảnh kinh thánh, và Moses không phải là điều bất thường trong bối cảnh đó. Bạn không mong đợi ông ấy một cách tích cực, nhưng việc nhắc đến tên ông ấy không gây ngạc nhiên. Nó cũng giúp rằng Moses và Noah có cùng âm tiết và số lượng âm tiết.
7. Tính Đại Diện Dẫn Đến Sai Lầm: Tỷ Lệ Cơ Bản Bị Bỏ Qua
Việc không vượt qua những bài kiểm tra nhỏ này dường như, ít nhất là ở một mức độ nào đó, là vấn đề của động lực không đủ, không cố gắng đủ.
Heuristic tính đại diện. Con người thường đánh giá xác suất của một sự kiện bằng cách nó đại diện cho một danh mục hoặc khuôn mẫu. Heuristic này dẫn đến những thiên lệch có thể dự đoán, chẳng hạn như bỏ qua tỷ lệ cơ bản và không nhạy cảm với kích thước mẫu.
Vấn đề gậy và bóng. Vấn đề gậy và bóng, phép suy diễn hoa và vấn đề Michigan/Detroit có một điểm chung. Việc không vượt qua những bài kiểm tra nhỏ này dường như, ít nhất là ở một mức độ nào đó, là vấn đề của động lực không đủ, không cố gắng đủ.
Trí tuệ, kiểm soát, lý trí. Các nhà nghiên cứu đã áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để xem xét mối liên hệ giữa suy nghĩ và tự kiểm soát. Một số đã giải quyết nó bằng cách đặt câu hỏi về mối tương quan: Nếu mọi người được xếp hạng theo khả năng tự kiểm soát và khả năng nhận thức của họ, liệu các cá nhân có vị trí tương tự trong hai bảng xếp hạng không?
8. Sự Sẵn Có Biến Đổi Nhận Thức: Nỗi Sợ và Truyền Thông Làm Sai Lệch Thực Tại
Con người có xu hướng đánh giá tầm quan trọng tương đối của các vấn đề bằng cách dễ dàng mà chúng được nhớ lại từ trí nhớ—và điều này chủ yếu được xác định bởi mức độ phủ sóng trong truyền thông.
Heuristic sự sẵn có. Con người đánh giá tần suất hoặc xác suất của một sự kiện bằng cách dễ dàng mà các trường hợp hiện lên trong tâm trí. Heuristic này bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như sự phủ sóng của truyền thông, kinh nghiệm cá nhân và các ví dụ sống động, dẫn đến những thiên lệch có hệ thống.
Vai trò của truyền thông. Heuristic sự sẵn có giúp giải thích tại sao một số vấn đề lại nổi bật trong tâm trí công chúng trong khi những vấn đề khác bị bỏ qua. Con người có xu hướng đánh giá tầm quan trọng tương đối của các vấn đề bằng cách dễ dàng mà chúng được nhớ lại từ trí nhớ—và điều này chủ yếu được xác định bởi mức độ phủ sóng trong truyền thông.
Thí nghiệm hộp trung thực. Trung bình, những người sử dụng nhà bếp đã đóng góp gần gấp ba lần trong “tuần mắt” so với “tuần hoa.” Rõ ràng, một lời nhắc nhở thuần túy về việc bị theo dõi đã thúc đẩy mọi người cải thiện hành vi của họ. Như chúng ta mong đợi ở giai đoạn này, hiệu ứng xảy ra mà không có bất kỳ sự nhận thức nào.
9. Lý Thuyết Triển Vọng: Mất Mát Lớn Hơn Lợi Nhuận
Đuôi cảm xúc vẫy con chó lý trí.
Lỗi của Bernoulli. Lý thuyết của Bernoulli giả định rằng tiện ích của tài sản của họ là điều khiến con người hạnh phúc hơn hoặc kém hơn. Jack và Jill có cùng tài sản, và lý thuyết do đó khẳng định rằng họ nên hạnh phúc như nhau, nhưng bạn không cần một bằng cấp tâm lý học để biết rằng hôm nay Jack rất vui và Jill thì buồn bã.
Các nguyên tắc cốt lõi của lý thuyết triển vọng. Lý thuyết triển vọng đề xuất rằng con người đánh giá kết quả như là lợi nhuận và mất mát so với một điểm tham chiếu trung lập. Nó cũng bao gồm sự nhạy cảm giảm dần đối với cả lợi nhuận và mất mát, và sự ác cảm với mất mát, nơi mà mất mát lớn hơn lợi nhuận.
Mô hình bốn phần. Mô hình bốn phần của sở thích được coi là một trong những thành tựu cốt lõi của lý thuyết triển vọng. Ba trong bốn ô là quen thuộc; ô thứ tư (phía trên bên phải) là mới và bất ngờ.
10. Cách Diễn Đạt Quan Trọng: Các Mô Tả Tương Đương Gợi Lên Những Lựa Chọn Khác Nhau
Câu nói rằng “xác suất sống sót một tháng sau phẫu thuật là 90%” thì an ủi hơn so với câu nói tương đương rằng “tỷ lệ tử vong trong một tháng sau phẫu thuật là 10%.”
Ảnh hưởng của cách diễn đạt. Những cách khác nhau để trình bày cùng một thông tin thường gợi lên những cảm xúc khác nhau và dẫn đến những lựa chọn khác nhau. Điều này là do Hệ thống 1 rất nhạy cảm với cách diễn đạt và bối cảnh của một vấn đề.
Hệ thống 2 bận rộn và cạn kiệt. Hệ thống 1 có ảnh hưởng nhiều hơn đến hành vi khi Hệ thống 2 đang bận rộn, và nó có một sở thích đặc biệt. Những người đang bận rộn về mặt nhận thức cũng có xu hướng đưa ra những lựa chọn ích kỷ hơn, sử dụng ngôn ngữ phân biệt giới tính và đưa ra những đánh giá nông cạn trong các tình huống xã hội.
Vấn đề xe điện. Vấn đề xe điện là một loạt các thí nghiệm tư duy trong đạo đức và tâm lý học, liên quan đến những tình huống đạo đức được cách điệu về việc có nên hy sinh một người để cứu một số lượng lớn hơn hay không.
11. Cái Tôi Nhớ Được Chiếm Ưu Thế: Sự Bỏ Qua Thời Gian Biến Đổi Giá Trị
Ký ức là tất cả những gì chúng ta giữ lại từ trải nghiệm sống của mình, và góc nhìn duy nhất mà chúng ta có thể áp dụng khi nghĩ về cuộc sống của mình là góc nhìn của cái tôi nhớ.
Hai cái tôi. Chúng ta có hai cái tôi: cái tôi trải nghiệm, sống trong hiện tại và cảm nhận đau đớn và niềm vui, và cái tôi nhớ, giữ điểm số và đưa ra quyết định dựa trên ký ức. Hai cái tôi này thường có những lợi ích mâu thuẫn.
Sự bỏ qua thời gian và quy tắc đỉnh-cuối. Cái tôi nhớ có xu hướng bỏ qua thời gian, phớt lờ độ dài của một trải nghiệm và tập trung vào khoảnh khắc mãnh liệt nhất (đỉnh) và khoảnh khắc cuối cùng (cuối). Điều này dẫn đến những ký ức và lựa chọn bị biến dạng không tối đa hóa hạnh phúc thực sự.
Cuộc sống như một câu chuyện. Chúng ta có xu hướng nhìn cuộc sống của mình như những câu chuyện, tập trung vào những sự kiện quan trọng và những khoảnh khắc đáng nhớ hơn là tổng thể thời gian trải nghiệm của chúng ta. Cách tiếp cận theo kiểu kể chuyện này có thể dẫn đến
Cập nhật lần cuối:
Đánh giá
Đánh giá về Suy Nghĩ, Nhanh và Chậm và Tư Duy Tích Cực có phần trái chiều. Một số độc giả cảm thấy những cuốn sách này mang lại nhiều hiểu biết, trong khi những người khác lại chỉ trích những phần giải thích dài dòng và ví dụ quá nhiều. Một người đánh giá nhấn mạnh tầm quan trọng của tư duy đối với sự phát triển cá nhân nhưng lại cho rằng phong cách viết có phần nhàm chán. Một người khác thì đánh giá cao khái niệm "tư duy phát triển" nhưng cảm thấy cuốn sách thiếu những lời khuyên thực tiễn. Dù có những chỉ trích này, nhưng điểm số tổng thể vẫn cao, đạt 4.34 trên 5, cho thấy nhiều độc giả tìm thấy giá trị trong nội dung của những cuốn sách này.
Similar Books









